Có thể anh ta chưa biết điều này cụ thể là gì, phải đợi đến mức đọc cao hơn mới rõ, nhưng anh ta đã biết được một trong hai điều: hoặc là cuốn sách này hay, đáng để đọc hoặc là nó không mang lại hiểu biết mới mẻ nào về vấn đề nên dù có lý thú hay nhiều thông tin đến đâu cũng không nên đọc nó làm gì. Vấn đề phải giải quyết ở một cuốn sách về vật lý khác với vấn đề phải giải quyết ở một cuốn sách về đạo đức. Những đánh giá về tính chân thực của một tiểu thuyết hầu như dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm chung kinh nghiệm sống của rất nhiều người.
Tương tự, cấp độ thứ hai không bị cấp độ thứ ba che mất, và cấp độ thứ ba thì không bị cấp độ bốn lấn lướt. Tóm lại, ta chỉ có thể học từ những người giỏi hơn ta. Khi những gì bạn đọc đã phản ánh được sự thật ở một phương diện nào đó, bạn không cần phải để tâm đến những vấn đề khác.
Độc giả phải tìm ra sự thống nhất đó, tìm ra điểm khác biệt và trật tự của các phần. Đây chính là mục tiêu chủ đạo của cuốn sách này. Trẻ em luôn đặt những câu hỏi kỳ diệu như: Tại sao là con người? Cái gì làm cho con mèo chạy được? Tên ban đầu của thế giới là gì? Thượng đế có lý do để tạo ra trái đất không? Đó là cách thể hiện sự tìm kiếm tri thức của trẻ em.
Vì thế, có thể bạn phải thừa nhận một nguyên nhân khởi phát nào đó mà bản thân nó không có nguyên nhân. Điều này không phải vì khoa học xã hội là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, có ít tài liệu kinh điển, mà còn vì khi đọc các tác phẩm khoa học xã hội, chúng ta thường chỉ tập trung vào một vấn đề cụ thể nào đó hơn là về một tác giả hay một cuốn sách cụ thể. Do đó, cuốn Principles of Psychology (Những nguyên tắc tâm lý học) của ông vừa là một tác phẩm khoa học vừa là một tác phẩm triết học mặc dù mục tiêu chính của nó liên quan đến khoa học.
Bất kỳ cuốn sách hướng dẫn nào, hoặc những cuốn sách chỉ cho bạn biết nên làm gì hoặc làm như thế nào đều là sách thực hành. Khó khăn thứ hai khi đọc sách khoa học là các phép tính. Nhìn nhận một cách nghiêm túc, ta sẽ thấy không có quy luật cuối cùng và không có quy luật không bị phá vỡ khi vẽ một bức tranh, hay sáng tạo một tác phẩm điêu khắc.
Các nhà triết học khác như Cicero và Berkeley cũng đã cố gắng dùng đối thoại nhưng không mấy thành công. Nhưng không có tác phẩm nào đơn thuần kể về cuộc chiến theo đúng nghĩa của từ này. Người đọc có cảm giác tác giả muốn nói nhiều hơn những gì được viết ra vì họ phải suy nghĩ rất nhiều và liên kết các câu, dựng nên những lý lẽ để đưa ra lý luận của riêng mình.
Dùng từ theo lối hàm ngôn là sử dụng từ với nhiều nghĩa khác nhau mà không phân biệt hay chỉ ra mối liên hệ giữa các nghĩa đó. Bạn không thể hiểu hết toàn bộ câu chuyện cho đến khi có thể tóm tắt cốt truyện một cách ngắn gọn, chứ không phải nêu ra một nhận định hay lý luận. Bản thân triết gia không phải lúc nào cũng nhận thức được điều này.
Do những giới hạn của yếu tố thời đại và sự thừa nhận sai lầm của ông về chế độ nô lệ, Aristotle đã không xem xét, thậm chí không hề có ý tưởng về nền hiến pháp dân chủ thật sự được xây dựng trên chế độ bỏ phiểu phổ thông. ĐỌC MỘT CÁCH NGẪU NHIÊN MỘT HOẶC HAI ĐOẠN, THẬM CHÍ VÀI TRANG LIÊN TỤC, NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ NHIỀU HƠN THẾ Nhờ sự đồng tình đó, người đọc có thể nhìn thấu được ngôn ngữ người viết đã sử dụng để thể hiện ý tưởng.
Rõ ràng không phải vấn đề gì cũng chứng minh hay định nghĩa được. Hai là, nó cho phép bạn rút ngắn thư mục của mình để dễ kiểm soát hơn. Trước khi nói ra điều bạn thích và không thích, bạn phải chắc chắn là mình đã nỗ lực tìm hiểu và đánh giá cao tác phẩm.
Bạn nên lắng nghe cuộc thảo luận của họ trước khi quyết định về những điều mà một người trong số họ trình bày. Những cảm giác khi đọc cuốn sách mách bảo bạn là bạn không cần đọc lại nữa. Tất nhiên, các tác phẩm văn học giả tưởng, từ thơ ca đến truyện và đặc biệt là kịch cũng có nhiều điều để độc giả học hỏi nhưng không giống với cách mà chúng ta học từ sách khoa học và triết học.