Thứ nhất, bạn nên nhớ cốt lõi vấn đề của một vở bi kịch là thiếu thời gian. Đọc lướt hay đọc để chuẩn bị luôn luôn là một ý tưởng hay, và điều này thường cần thiết khi bạn không biết liệu cuốn sách mình đang cầm có đáng đọc không. Kinh nghiệm chung là loại có ở tất cả mọi người.
Một tác giả có thể thiếu những thông tin mà tác giả khác có; mắc lỗi trong giả thuyết mà các tác giả khác không phạm phải; có cùng một cơ sở lý lẽ nhưng lại lập luận thiếu thuyết phục hơn các tác giả khác. Có những bài kiểm tra chặt chẽ về giá trị các câu trả lời của các câu hỏi triết học, nhưng chúng chỉ dựa trên kinh nghiệm của một người bình thường chứ không phải của một triết gia. Đọc là học từ một người thầy vắng mặt.
Tuy nhiên, chúng tôi rất nghiêm túc khi sử dụng từ này. Tất nhiên, sự thận trọng là cần thiết và bạn cần biết cả hai ngôn ngữ (chính là hai quyển sách) càng tường tận càng tốt. Theo họ, tất cả chỉ là vấn đề quan điểm.
Về câu hỏi cuối cùng (Ý nghĩa của tác phẩm lịch sử là gì?) có thể nói không tác phẩm văn chương nào có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của con người bằng lịch sử. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều gì đáng ra nên làm, nhưng khi không có thời gian liệu ta có thể sáng suốt như vậy không? Đó là câu hỏi bạn nên đặt ra thường xuyên khi đọc các bi kịch Hy Lạp. Về câu hỏi thứ nhất (Cuốn sách viết về cái gì?), mọi cuốn sách lịch sử đều chỉ nói đến một chủ đề cụ thể và giới hạn trong khi độc giả thường không bỏ công tìm xem chủ đề đó là gì.
Đối với sách miêu tả, chúng tôi có nói rằng loại sách này thường được chia thành hai loại: lý thuyết (chuyên về những gì đã biết) và thực hành (chuyên về các vấn đề hành động). Thứ nhất là các luận cứ. Những bài viết khoa học xã hội có nhiều thuật ngữ và hình ảnh ẩn dụ kèm theo xúc cảm sâu sắc thường làm độc giả lầm tưởng là dễ đọc.
Ngoài ra, có những bất đồng có căn nguyên sâu xa hơn, tồn tại trong chính hệ thống lý lẽ. Tuy nhiên, bạn không nên nóng vội kết luận ngay vì có thể lỗi là do bạn chứ không phải là cuốn sách. Nhận định và lập luận là những đơn vị logic, hay đơn vị tư duy và tri thức.
Nếu như vậy, ta lại không còn việc gì để làm vì sự nhất trí của các tác giả đã đủ để tháo gỡ vấn đề. Định lý của Euclid không chịu ảnh hưởng của vấn đề này. Người này sẽ cố gắng tìm ra những quy tắc không được thể hiện trực tiếp, nhưng có thể rút ra từ các nguyên tắc và chỉ ra các quy tắc nên được áp dụng như thế nào trong thực tiễn.
Khi một người nói sự thật là thì người đó hàm ý là mọi người nhìn chung nhất trí đó là sự thật, chứ không phải chỉ riêng anh ta hay một số người khác nhất trí như vậy. Nếu một triết gia thiếu nhất quán, bạn phải quyết định chuỗi nhận định nào là điều mà họ ngụ ý: hoặc là những nguyên tắc ban đầu họ nêu hay là những kết luận không tuân theo các nguyên tắc đã nêu ban đầu hoặc bạn có thể quyết định rằng không có cái nào có giá trị cả. Dù kiểu đọc này được định nghĩa là đọc hai hay nhiều cuốn sách về cùng một chủ đề, nghĩa là việc xác định chủ đề diễn ra trước việc đọc, nhưng theo một khía cạnh thì việc xác định chủ đề phải đi sau chứ không phải đi trước việc đọc.
Bên cạnh đó, các nhà xuất bản cũng nhận thấy một mục lục ít chi tiết sẽ hấp dẫn hơn một cuốn sách có tiêu đề chương ít nhiều bí hiểm - họ sẽ muốn đọc sách để tìm ra nội dung. Rubin - người bạn đã thuyết phục chúng tôi đưa ra những thay đổi quan trọng, khiến cho cuốn sách này khác hẳn với nguyên bản, trở thành một cuốn sách hay hơn, hữu ích hơn như chúng tôi mong muốn. Cần nhớ rằng, tiêu chí phân loại này chỉ áp dụng với những cuốn sách hoặc là khoa học hoặc là triết học, chứ không áp dụng với những cuốn sách viết về các lĩnh vực khác.
Loại thứ nhất là tiểu sử cuối cùng, được coi như lần nghiên cứu cuối cùng, thấu đáo và khoa học về cuộc đời một ai đó đủ quan trọng để xứng đáng có một cuốn tiểu sử về toàn bộ cuộc đời họ. Khi đọc to, bạn không thể dễ dàng lướt qua một cụm từ hay một dòng thơ bị hiểu sai. Chúng ta không những không được chấp nhận hệ thống ngôn từ của bất kì tác giả nào mà còn phải sẵn sàng đối mặt với khả năng là không có hệ thống ngôn từ nào mang lại ích lợi cho chúng ta.