Thông dâm em học bướm non tơ quá đã
Nó phải có một khả năng hùng biện đặc biệt, xuất phát từ những khẳng định quyết liệt không cần phải chứng minh và rất ấn tượng được bao bọc bởi những hình ảnh có tính phán quyết hoàn toàn chung chung. Tôi đã đề cập đến tính bảo thủ của đám đông và đã chỉ ra rằng, nhiều cuộc nổi loạn kết thúc chỉ với sự thay đổi về ngôn từ. Nếu chúng ta có thể xem xét kỹ lưỡng từng chi tiết, chúng ta còn có thể chỉ còn ra những ảnh hưởng quan trọng của chủng tộc một cách dễ dàng.
Những người sống ở thời đại cách mạng đã tin vào việc bắt chước những người Hy lạp và La mã, nên chỉ gắn cho những ngôn từ cũ những ý nghĩa mà chúng chưa bao giờ có. Nhưng cho dù sự cương quyết của những lãnh đạo như vậy có lớn bao nhiêu thì nó cũng chỉ là nhất thời và kéo dài không quá cái đà mà họ tạo nên. Ở một thời điểm nó có thể là tốt đối với dân tộc này nhưng lại hoàn toàn không tốt đối với một dân tộc khác.
Người ta có lý khi nói về cái vẻ ngoài đặc biệt của nghệ thuật sân khấu. Những cái đầu vĩ đại như Galilei, Newton, Leibnitz, không hề có một giây phút nào nghĩ lại, rằng cần phải nghi ngờ về sự thật của những loại huyền thoại như vậy. Đám đông, không có khả năng xem xét và suy nghĩ một cách lô gic, với họ chẳng có gì là không có thể.
Ví dụ một nhà lập pháp khi muốn ra một điều luật thuế mới liệu có được phép chọn giải pháp về lý thuyết là công bằng nhất không? Không bao giờ. Cũng quá thừa khi lưu ý rằng, sự thiếu khả năng lập luận của đám đông đã tước đi của họ mọi năng lực phê phán, có nghĩa là khả năng để phân biệt được giữa đúng và sai, khả năng đưa ra một phán xét xác đáng. Nó đã trở thành một phương tiện thông tin đơn giản và đã từ bỏ công việc truyền bá một ý tưởng hoặc một học thuyết nào đó.
Đối với đức tin cũng vậy, con đường tiếp nhận của nó thường không qua sự suy xét. Các nhà triết học và các nhà sử học đã cố gắng một cách tuyệt vọng để chứng minh sự vô nghĩa của nó. Thường con người vứt bỏ nó xuống với một cái giá của những cuộc đảo lộn khủng khiếp, nhưng rồi có vẻ như là định mệnh họ lại dựng nó lên trở lại.
Không phải cái tên của quan điểm mà cũng chẳng phải những thích nghi giả tạo của nó làm cho bản chất vấn đề thay đổi. Sự tác động của tầng lớp xã hội bên dưới vào tầng lớp trên sẽ lại càng kỳ quặc hơn khi những quan niệm về lòng tin của đám đông ít nhiều ngày càng bị ảnh hưởng bởi một ý tưởng cao siêu, ý tưởng mà ngay đối với môi trường đã sinh ra nó lại hầu như thường không có tác động gì. Trong đám đông mỗi một tình cảm, mỗi một hành động đều có thể lây nhiễm, và chắc chắn ở mức độ cao đến nỗi thành viên của nó có thể hy sinh mong muốn cá nhân cho mong muốn của cả tập thể.
Đám đông thể hiện tất cả những đặc tính không bền vững, nhất thời và không có tương lai. Người ta cũng đã đưa em rể của bà đến nơi xác chết và người này cũng quả quyết một cách không do dự: “đây là thằng nhỏ Philibert. Có phải đám đông không bao giờ được dẫn dắt bởi lý trí là một điều đáng tiếc? Chúng tôi không dám khẳng định cái điều như vậy.
Năng lực tinh thần của từng con người trong đám đông không hề mâu thuẫn với nguyên lý cơ bản này. Nhưng ngay bây giờ ta có thể dự đoán được rằng, cái xã hội tương lai đó trong tổ chức của nó sẽ phải tính tới một quyền lực mới, là chủ nhân ông trẻ nhất thời nay: đó là quyền lực của đám đông. Tôi đã chỉ ra trong bài viết đó, rằng một đám đông lịch sử là cái gì và nếu như những đặc điểm tính cách của nó được hình thành, khi đó những tố chất văn hóa của nó, những đức tin của nó, các thể chế của nó, nghệ thuật của nó, nghĩa là tóm lại, tất cả mọi yếu tố văn hóa sẽ tạo nên cái sắc thái bên ngoài của tâm hồn.
Đồng chí X liền phản công bằng cách đưa ra những bằng chứng chứng minh những người xã hội chủ nghĩa là những kẻ “đần độn” hoặc là những “thằng hề”. Có loại khác, thường hiếm thấy hơn nhiều, là những người có ý chí mạnh mẽ và bền bỉ. Các tác phẩm khác của Le Bon bao gồm: Tâm lý học về chủ nghĩa xã hội (Psychologie du socialisme, 1898), Bài học tâm lý từ cuộc chiến tranh châu u (Enseignements psychologiques de la guerre Européenne, 1915), Tâm lý học thời đại mới (La psychologie des temps nouveaux, 1920) và Một thế giới mất cân bằng (Le déséquilibre du monde, 1924).
Những nhà chuyên môn tâm lý học, không sống gần đám đông, thường bỏ qua không chú ý đến nó, và nếu có, họ chỉ chú trọng đến những hành động liên quan tới tội ác, là cái thuộc vào khả năng của nó. Nếu tôi có thể quyết định được khả năng của nó, thì tôi sẽ vẫn giữ nguyên trạng như hiện giờ, vì chính bởi những nguyên nhân thực tế nảy sinh trong nghiên cứu về tâm lý học đám đông và từ những nguyên nhân tôi sẽ tiếp tục tranh luận, nếu như một khi tôi nhớ lại những khiếm khuyết của nó. Tuy nhiên ông ta chẳng thu được kết quả nào.