Một năm sau khi cuốn Đọc sách như một nghệ thuật ra đời, có một tác phẩm tương tự mang tên How to read two books (Cách đọc hai cuốn sách) cũng được xuất bản. Bên cạnh đó, việc chuuyển hệ thống thuật ngữ này sang hệ thống thuật ngữ khác có nhiều rủi ro vì từ ngữ không đơn giản như các ký hiệu toán học. Việc này xuất phát từ những hiểu biết còn chung chung và khá mơ hồ về cuốn sách.
Đọc kiểm soát là cấp độ đọc thật sự. Điển hình là các tác phẩm của Euclid, trong đó mỗi từ quan trọng ông sử dụng chỉ giới hạn với một nghĩa duy nhất. Để đọc hiệu quả, tất cả những gì bạn phải làm là trải nghiệm tác phẩm.
Sự khúc triết và trật tự của văn phong này được những người có tư duy rõ ràng ưa thích, nhưng đó không phải là nét quan trọng nhất trong cách tranh luận của Thomas Aquinas. Tuy nhiên phần này khá dài, trong khi sự thống nhất về nội dung cuốn sách có thể tóm gọn bằng vài dòng dưới đây: Từ việc đọc kiểm soát, bạn đã biết rõ sách nào liên quan trực tiếp đến chủ đề bạn quan tâm và có thể tiếp tục việc đọc theo cách đọc đồng chủ đề.
Vì thế, cố gắng tìm ra những phần liên quan cùng lúc với việc xác định sách liên quan thường là việc rất khó. Có thể là do cấu trúc sách lộn xộn, các phần trong sách không được liên kết với nhau, một số phần không hợp lý, hoặc tác giả đã phóng đại quá nhiều khi sử dụng những từ ngữ thậm xưng, gây ra hàng loạt tình tiết khó hiểu. Chung không có nghĩa là phổ quát.
Còn ở câu chuyện dở, một trong những điều gây khó chịu nhất cho độc giả là các nhân vật trong đó dường như được thưởng hay phạt không theo quy luật nào, không có lý do nào. Mặc dù tiểu sử và đặc biệt là tự truyện thường tiết lộ rất nhiều thông tin về tác giả, nhưng chúng ta không nên dành quá nhiều thời gian tìm hiểu những bí mật của tác giả đến mức không thể tìm ra những điều họ diễn tả hết sức mộc mạc trong tác phẩm. Làm được tất cả những việc này mới có thể nói là ta đã phân tích xong cuộc thảo luận về vấn đề ta đang quan tâm và ta đã hiểu được nó.
Hơn nữa, việc sử dụng từ là và một vật cho thấy vật được đề cập tới phải là một thực thể nhất định. Đó là lý do tại sao quy tắc 3 đặc biệt cần thiết như là một sự bổ sung cho quy tắc 2. Cấp độ đọc thứ ba chúng tôi gọi là đọc phân tích.
Một tác giả có thể không rút ra được kết luận tiềm ẩn trong các bằng chứng hay nguyên lý của mình, làm cho quá trình suy luận của anh ta chưa hoàn thành. Ngược lại, không có cuốn sách nào hay đến mức không thể tìm ra một lỗi sai. Có sự khác biệt rõ nét giữa ghi chú cấu trúc và ghi chú ý niệm.
Điều nghịch lý là những yếu tố làm cho tác phẩm khoa học xã hội có vẻ như dễ đọc lại chính là những yếu tố làm cho các tác phẩm về lĩnh vực này khó đọc. Tuy nhiên, điều này vẫn có thể làm được, và những ai làm được nó sẽ học được cách đọc tốt hơn. Điều phân biệt giữa chúng ta với các triết gia là các triết gia thường suy nghĩ một cách mạch lac, họ đặt những câu hỏi có tính tìm tòi và suy nghĩ kỹ về các kinh nghiệm để tìm ra câu trả lời.
Yêu cầu chỉ được nêu dữ kiện, không nêu ý kiến (trừ trường hợp như ví dụ trên) cũng hạn chế tính bao quát của các cuốn bách khoa toàn thư. Một người có thể vừa phản đối vừa đồng ý về vấn đề nào đó. Ví dụ, nếu nhìn thấy Aristotle đi cùng một phiên dịch biết cả tiếng Anh hiện đại và tiếng Hy Lạp cổ, chúng tôi sẽ không thể hiểu nổi ông ta và ông ta cũng vậy.
Đơn cử như Euclid, Galileo, Newton - những tác giả viết theo phong cách toán học hoặc số học có xu hướng biến mỗi đoạn văn thành một đơn vị lập luận. Họ vừa truyền kiến thức, vừa nhấn mạnh đến việc áp dụng kiến thức vào thực tế. Tất nhiên, trong tổng số các cuốn tạo thành tài liệu nghiên cứu về chủ đề của bạn, bạn vẫn phải đọc từng cuốn với những kỹ năng của việc đọc phân tích.