Immanuel Kant, đã đi theo phương thức của Aristotle mặc dù về phương diện triết học ông chịu ảnh hưởng của Plato nhiều hơn. Người đọc có cảm giác tác giả muốn nói nhiều hơn những gì được viết ra vì họ phải suy nghĩ rất nhiều và liên kết các câu, dựng nên những lý lẽ để đưa ra lý luận của riêng mình. Tiểu thuyết, kịch, thơ không theo trình tự các thuật ngữ, nhận định và lý luận.
Trước khi nói ra điều bạn thích và không thích, bạn phải chắc chắn là mình đã nỗ lực tìm hiểu và đánh giá cao tác phẩm. Nếu ở trên chúng ta đề cập đến vấn đề một từ có thể biểu thị nhiều thuật ngữ thì đây lại là trường hợp một thuật ngữ có thể được biểu đạt bằng hai hay nhiều từ đồng nghĩa. Loại tiểu sử này không viết về những người đang sống.
Nếu bạn nắm chắc kỹ năng và đã rất nỗ lực mà vẫn không thể nắm được tính chính thể của cuốn sách, không thể phân biệt được các phần và mối liên hệ giữa chúng thì rất có thể cuốn sách bạn đang đọc là một cuốn sách tồi, dù nó có tiếng tăm thế nào. Cuốn Brave New World (Thế giới mới can đảm) của Aldous Huxley lại là một tác phẩm đầy tính hùng biện khi chỉ trích những mặt trái của các tiến bộ kỹ thuật. Sự thật là cuốn sách hầu như không đề cập đến con người mà đối tượng này được Darwin nhắc tới trong cuốn sách sau của ông - cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc loài người).
Khi đọc theo cấp độ kiểm soát, có thể bạn không có thời gian để ghi chú trong sách vì đọc kiểm soát luôn bị giới hạn về thời gian. Nếu bạn học cách đọc đó, thì việc đọc lấy thông tin sẽ tự diễn ra mà không cần bạn quan tâm. Đọc đến đoạn cuối, họ đã quên mất đoạn đầu và mất luôn cái nhìn tổng quan.
Họ đã phát triển nghệ thuật đọc, lấy thông tin vượt quá khả năng của những độc giả trung bình. Các quy tắc đó chia làm ba nhóm: Nhóm thứ nhất là các quy tắc cấu trúc, gồm các quy tắc khám phá ra tính thống nhất và cấu trúc toàn thể - bộ phận; Nhóm thứ hai là các quy tắc giải nghĩa, gồm các quy tắc về xác định và giải nghĩa của các thuật ngữ, nhận định, lý luận có trong sách; Nhóm thứ ba là các quy tắc phê phán gồm các quy tắc về phê bình học thuyết của tác giả. Tác giả lặp đi lặp lại rằng đức hạnh là điểm trung gian giữa hai đối cực sự thiếu hụt và sự vô độ.
Từ những lập luận trên, chúng ta có thể rút ra các quy tắc để sử dụng từ điển một cách thông minh. Nhưng đó đơn giản chỉ vì trí não bạn bị nhét đầy thông tin hơn là trước khi bạn đọc cuốn sách. Nhưng khi được yêu cầu trình bày lại nhận định theo ý hiểu của họ thì họ thường không thể diễn giải được (ngay cả cách hiểu đơn giản nhất là nếu một vật không tồn tại thì nó không thể hoạt động được).
Nhưng cũng sẽ là vô ích nếu cố đọc hay học thuộc cho kỳ hết một cuốn bách khoa toàn thư. Nhưng em vẫn chưa biết cấp độ đọc cao hơn cấp độ đọc sơ cấp. Đó là trợ giúp người sử dụng khi họ gặp phải những cuốn sách quá khó vì có nhiều thuật ngữ, từ cổ, ẩn dụ, hoán dụ hoặc gặp các từ quen thuộc nhưng lại được sử dụng với nghĩa cũ.
Chúng được viết cho độc giả nói chung chứ không phải cho các chuyên gia về logic nên không đòi hỏi độc giả phải có năng lực logic đặc biệt. Sách lý thuyết lại có thể chia nhỏ thành sách lịch sử, khoa học (và toán học) và triết học. Khi đã làm được điều này, học sinh có thể đọc nhanh với tốc độ của trí óc chứ không phải chậm chạp như tốc độ của mắt.
Chúng ta không nên hy vọng hiểu được sự thật của một cuộc chiến nếu chỉ đọc thông cáo của một bên tham chiến. Học bằng khám phá so với học có sự hướng dẫn cũng giống học không có giáo viên so với học có giáo viên chỉ bảo. Tất nhiên, hai tác giả cũng sẽ sử dụng các phương pháp hoàn toàn khác nhau để giải quyết những vấn đề không giống nhau đó.
Mặc dù các quy tắc trên có tính tương hỗ, nhưng cách tuân theo chúng hoàn toàn khác nhau. Thông thường, những sự khác biệt trong cách trả lời được quy cho là những quan niệm khác nhau về câu hỏi, về cùng một vấn đề. Họ trình bày thẳng thắn về các quan điểm triết học chứ không đưa ra các mâu thuẫn về ý kiến hay giả thuyết như của Platon.