Văn phong của Aquinas cũng có những điểm tương đồng với hai kiểu trên. Ngoài ra, những người theo quan điểm này còn cho rằng việc đọc đồng chủ đề bao gồm cả việc đọc các tác giả tách biệt nhau về không gian và thời gian, khác biệt rõ nét về phong cách và hướng tiếp cận sẽ bóp méo sự thật. Lời đánh giá thực tiễn ngay trước hành động phải thật cụ thể.
Đa số họ chỉ chuyên tâm vào các câu hỏi hạng hai và thường là những câu liên quan đến ngôn ngữ diễn đạt suy nghĩ. Hãy để ý đến điều bạn hiểu, và đừng dừng lại vì những gì bạn chưa thể hiểu ngay. Nó có thể bỏ qua thông tin về tình trạng của nền giáo dục Mỹ trong thập kỷ đó, bỏ qua thông tin về sự dịch chuyển biên giới nước Mỹ hay những tiến bộ của nền tự do Mỹ.
Anh ta không được phép để sót bất cứ chứng cứ nào nếu muốn biết hết những gì anh ta phải biết về chủ đề đó. Bây giờ, bạn sẽ hiểu vì sao tác giả một cuốn sách thực hành luôn phải sắm vai của một nhà diễn thuyết hay tuyên truyền viên. Đối với tác giả, chưa chắc đã là những câu thật sự quan trọng nhất nhưng khả năng đó hoàn toàn có thể xảy ra, vì những ý quan trọng nhất mà tác giả muốn bày tỏ chắc hẳn sẽ là những phần mà bạn thấy khó hiểu nhất.
Thứ nhất, độc giả phải hiểu cặn kẽ về tác phẩm trước khi đưa ra đánh giá phê bình. Có thể John Doe đã ký hợp đồng nhưng không phải vào ngày 24 tháng 3 và đây là một thông tin quan trọng. Ngoài những câu hỏi về sự tồn tại, còn có hàng loạt câu hỏi triết học khác liên quan đến sự thay đổi hay biến chuyển.
Thứ hai, việc mọi người bất đồng quan điểm không có gì quan trọng. Hệ thống hoá triết học: Vào thế kỷ XVII, một kiểu trình bày khác của triết học ra đời nhờ công của hai nhà triết học nổi tiếng là Descartes và Spinoza. Và nếu chưa bao giờ tự hỏi bản thân câu hỏi này thì sẽ còn nhiều câu hỏi khác về cuốn sách họ không thể trả lời được.
Khi người học bắt đầu học mà không có sự trợ giúp của bất cứ ai, việc học sẽ diễn ra tự nhiên, chứ không phải bằng ngôn từ, câu chữ. Aristotle gọi nguyên nhân hiểu này là một bước chuyển tại chỗ. Lý tưởng này đòi hỏi sự nỗ lực làm việc thật cẩn trọng để cân bằng các câu hỏi đối nghịch nhau, loại ra những lời bình mang thành kiến, kiểm tra xem có xu hướng nào quá nhấn mạnh hoặc quá coi nhẹ không.
Xây dựng một hệ thống thuật ngữ trung tính về chủ đề mà ta cho rằng tất cả hoặc đa số tác giả đều sử dụng đến chúng, dù họ có thật sự dùng hay không. Nhưng bạn có thể thấy băn khoăn làm sao để tìm ra các nghĩa mà tác giả sử dụng? Câu trả lời là bạn phải xác định nghĩa của từ bạn chưa hiểu dựa trên ý nghĩa của tất cả các từ bạn đã hiểu xuất hiện trong cùng ngữ cảnh. Trong đó, luận điểm một là A, luận điểm hai là B, luận điểm ba là C,… và cứ tiếp tục như vậy.
Một loại về cơ bản trình bày các quy tắc (ví dụ như cuốn sách này hoặc sách dạy nấu ăn, sách hướng dẫn lái xe). Họ không bao giờ hiểu nổi những ẩn ý sâu xa dưới lớp vỏ từ ngữ. Hoặc khi ai đó mang trong mình tính tàn bạo vô thức, anh ta sẽ thấy thoả mãn khi đọc cuốn tiểu thuyết nào anh ta như được hoá thân vào kẻ thống trị trong đó.
Vì vậy, quy tắc 11 có thể phát biểu như sau: TÔN TRỌNG SỰ KHÁC NHAU GIỮA KIẾN THỨC VÀ QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN BẰNG CÁCH ĐƯA RA NHỮNG LÝ DO GIẢI THÍCH CHO ĐÁNH GIÁ PHÊ BÌNH CỦA BẠN. Vậy bạn sẽ áp dụng quy tắc 1 thế nào? Đầu tiên là kiểm soát cuốn sách. Ví dụ, thi sĩ phải dùng trí tưởng tượng để làm thơ, nhưng người đọc không cần phải tưởng tượng để đọc bài thơ đó.
Ví dụ, tình yêu, theo một số nhà văn, chỉ bao gồm lòng vị kỷ, thường là ham muốn xác thịt. Đa phần các bài thơ hay đều rất phức tạp và bao hàm trong nó cả ý nghĩa về mặt ngôn ngữ và tư duy. Những điều mà bằng kinh nghiệm của mình, chúng ta nói rằng chúng tồn tại nhưng chúng cũng có thể thay đổi Chúng ra đời và mất đi, di chuyển từ nơi này đến nơi khác trong quá trình tồn tại và nhiều thứ thay đổi cả về số lượng và chất lượng để trở nên to hơn hay nhỏ hơn, nặng hơn hay nhẹ hơn hoặc thay đổi màu sắc…